Vị thế chính trị khi bắt đầu cuộc chiến Chiến_tranh_Hán-Sở

Năm 206 TCN, triều đại nhà Tần chấm dứt. Trong chiến tranh chống Tần, các quốc gia thời Chiến Quốc cũ: Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy được tái lập để làm liên minh đánh Tần hùng mạnh. Tuy nhiên từng quốc gia lại theo đuổi mục đích riêng, giữa các nước này và trong nội bộ một số nước cũng hình thành mâu thuẫn giữa các lực lượng mới thành lập.

Tại nước Tề, khi Trần Thắng nổi dậy thì người trong họ xa của vua Tề trước kia là Điền Đam hưởng ứng, tự lập làm Tề vương. Khi Điền Đam đi cứu Ngụy bị tử trận, người trong nước lập em Tề vương Kiến [4] là Điền Giả lên ngôi. Em Điền Đam là Điền Vinh mang quân về đánh đuổi Điền Giả, lập con Đam là Thị lên ngôi Tề vương. Giả chạy sang Sở. Hạng Lương[5] kêu gọi Tề hội quân đánh Tần, Vinh ra điều kiện Sở phải giết Giả. Hạng Lương không nghe nên Điền Vinh không chịu ra quân.

Tại Ngụy, sau khi Ngụy vương Cữu chống Tần chết [6], em là Báo chạy sang Sở, được Hạng Lương giúp quân về lấy lại đất Nguỵ. Nhưng Báo không theo giúp Hạng Vũ đánh quân chủ lực của Tần.

Tại Triệu, sau khi được Hạng Vũ giải vây ở trận Cự Lộc, hai tướng chủ chốt là Trương NhĩTrần Dư mâu thuẫn vì Nhĩ cho rằng Dư không hết sức cứu viện cho thành bị vây ngặt. Mặt khác, các tướng Tư Mã Ngang, Thân Dương cũng theo Trương Nhĩ, tách khỏi quân Triệu vương Yết, tự nhập theo quân tây tiến của Hạng Vũ để tiến thân.

Tại Yên, Hàn Quảng vốn theo lệnh của Triệu vương Vũ Thần là người khởi nghĩa đầu tiên theo Trần Thắng đi lấy Yên, được người Yên tôn lập. Quảng không hưởng ứng Hạng Vũ nhưng tướng Yên là Tang Đồ cũng tự mang quân bản bộ theo Sở.

Chỉ có nước Hàn nhỏ yếu nhất và ít tham vọng nhất, Hàn Thành là dòng dõi nước Hàn được con cháu công thần cũ là Trương Lương tái lập và được nước Sở (Hạng Lương) hỗ trợ quân về đánh Tần lấy lại nước Hàn nhưng gặp nhiều khó khăn. Hàn vương để tướng tài Trương Lương đi giúp Lưu Bang nên Bang vào Quan Trung trước, do đó Hạng Vũ không bằng lòng với vua Hàn.

Nước Sở là lực lượng đánh Tần mạnh nhất, giữa các tướng cũng có sự cạnh tranh. Theo lời giao ước của Sở Hoài vương, người nào trong số các vương dẫn quân vào được Quan Trung trước, thì sẽ được làm vua Quan Trung. Hoài vương nghe theo lời một số bề tôi thân cận, sai Lưu Bang đi thẳng đường phía tây vào Tần, không gặp các cánh quân mạnh, còn Hạng Vũ thì đi đường phía bắc, phải đối phó với quân chủ lực của Tần do Chương Hàm chỉ huy. Mặt khác, Hạng Vũ lại chỉ được làm phó tướng cho Tống Nghĩa, bị Nghĩa ghìm quân 46 ngày bất động nên quân Sở đi càng chậm.

Kết quả Lưu Bang tiến vào Hàm Dương trước. Mọi người ở thành Hàm Dương đều ủng hộ Lưu Bang, vì ông cũng đã đối xử với họ công bằng và nhân từ hơn nhà Tần trước kia. Hơn 1 tháng sau Hạng Vũ dẫn đại quân hùng hậu vào thành Hàm Dương gặp Lưu Bang, Lưu Bang thấy rằng khó có thể chống đối được nên đã nhượng bộ rút lui.

Sự phân phong của Hạng Vũ

Hạng Vũ vào Hàm Dương, giết vua Tần đã hàng là Tử Anh, đốt cung A Phòng còn xây dở. Dòng họ nhà Tần và dân Tần bị giết rất nhiều khiến họ thất vọng. Hạng Vũ phân phong chư hầu như sau:

  • Chương Hàm làm Ung Vương, cai trị từ Hàm Dương sang phía tây, đóng đô ở Phế Khâu.
  • Trưởng sử Tư Mã Hân xưa làm quan coi ngục ở Lịch Dương vốn có ơn với Hạng Lương; nên Tư Mã Hân được lập làm Tắc vương, cai trị từ phía đông Hàm Dương cho đến sông Hoàng Hà, đóng đô ở Lịch Dương.
  • Đô úy Đổng Ế trước đã khuyên Chương Hàm đầu hàng nước Sở, cho nên Đổng Ế được làm Địch vương, cai trị đất Thượng Quận, đóng đô ở Cáo Nô
  • Đổi Ngụy vương là Ngụy Báo làm Tây Ngụy vương, cai trị đất Hà Đông, đóng đô ở Bình Dương.
  • Thân Dương ở Hà Khâu là thủ hạ tin cậy của Trương Nhĩ, đã lấy được quận Hà Nam, và đóng quân Sở trên Hoàng Hà, cho nên được lập làm Hà Nam vương, đóng đô ở Lạc Dương.
  • Hàn vương tên là Thành vẫn ở đất cũ, đóng đô ở Dương Định.
  • Tướng nước Triệu là Tư Mã Ngang đã lấy được Hà Nội và đã có nhiều lần lập công, cho nên được lập làm Ân vương, cai trị đất Hà Nội, đóng đô ở Triều Ca.
  • Đổi Triệu Vương Yết làm Đại vương.
  • Thừa tướng nước Triệu là Trương Nhĩ theo Hạng Vũ vào Quan Trung cho nên được lập làm Thường Sơn vương cai trị đất Triệu đóng đô ở Tương Quốc.
  • Đương Dương quân Anh Bố làm tướng nước Sở, thường lập công đầu trong quân đội, cho nên được lập làm Cửu giang vương, đóng đô ở Lục
  • Ngô Nhuế làm lệnh ở Bà Dương, thường đốc suất Bách Việt để giúp chư hầu, lại theo Hạng Vũ vào Quan Trung cho nên được lập làm Hành Sơn vương, đóng đô ở đất Trâu.
  • Cung Ngao làm trụ quốc nước Sở được phong làm Lâm Giang vương, đóng đô ở Giang Lăng.
  • Đổi Yên vương Hàn Quảng làm Liêu Đông vương.
  • Tướng nước Yên là Tạng Đồ đã theo Sở cứu Triệu, sau đó lại theo Hạng Vũ vào Quan Trung cho nên được lập làm Yên vương, đóng đô ở đất Kế.
  • Đổi Tề vương là Điền Thị làm Giao Đông vương.
  • Tướng nước Tề là Điền Đô đã cùng Hạng Vũ cứu Triệu sau đó lại theo Hạng Vương vào Quan Trung cho nên được lập làm Tề vương, đóng đô ở Lâm Tri.
  • Điền An là cháu của Tề vương Kiến trước kia (thời Chiến Quốc). Khi Hạng Vũ vượt qua sông cứu Triệu, Điền An đã lấy lại được mấy thành ở Tế Bắc rồi đem binh đầu hàng Hạng Vũ, cho nên được lập làm Tế Bắc vương, đóng đô ở Bắc Dương.
  • Đất Ba và đất Thục cũng là đất Quan Trung, nên lập Lưu bang làm Hán Vương cai trị đất Ba, đất Thục và đất Hán Trung đóng đô ở Nam Trịnh.
  • Hạng Vũ tự lập làm Tây Sở Bá Vương, cai trị chín quận, đóng đô ở Bành Thành.

Điền Vinh đã mấy lần không nghe theo Hạng vương lại không chịu đem binh theo Sở đánh Tần cho nên không được phong đất. Thành An quân Trần Dư bỏ tướng ấn mà đi, không theo Hạng Vũ vào Quan Trung, nhưng nghe nói ông là người hiền, có công với nước Triệu, lại nghe tin ông ta lúc bấy giờ ở Nam Bì cho nên phong cho ba huyện ở xung quanh đấy. Tướng của Phiên Quân là Mai Quyên lập được nhiều công, cho nên được phong thập vạn hộ hầu.

Trong nước Sở, Hạng Vũ oán Sở Hoài Vương nên tôn lên làm Nghĩa đế (hoàng đế trên danh nghĩa) và gần như là đày ải vua này sống lưu đày tới một nơi xa xôi, rồi sai người giết đi. Nói chung, trong cuộc phân phong Hạng Vũ đã giành lấy mọi thứ tốt nhất cho mình và những người đi theo. Hơn thế nữa, nhiều vị tướng, những người nghĩ rằng họ có thể trở thành vương của một nước nào đó nhưng Hạng Vũ đã không để ý đến họ nên bất mãn với Hạng Vũ.

Phản ứng của chư hầu phía đông

Điền Vinh làm phụ chính cho Điền Thị nghe tin Hạng Vũ đã đổi vua Tề là Thị đi Giao Đông, và lập tướng nước Tề là Điền Đô làm Tề vương, liền nổi giận, không cho Tề Vương Thị đi Giao Đông, rồi giữ lấy nước Tề và đón đánh Điền Đô. Điền Đô bỏ chạy sang Sở, Tề Vương là Thị, sợ Hạng Vương nên bỏ trốn về nước mình là Giao Đông. Điền Vinh tức giận, đuổi theo, giết Tề vương ở Tức Mặc, Vinh bèn tự lập làm Tề vương, đem quân về hướng tây, giết vua Tề Bắc là Điền An, làm vua cả Tam Tề.

Vinh giao ấn tướng quân cho tướng ở Lương là Bành Việt[7], ra lệnh chống Sở. Trần Dư ngầm sai thủ hạ đến mượn quân Điền Vinh đánh Trương Nhĩ ở Triệu. Tề vương bằng lòng, bèn sai quân đi đến Triệu. Trần Dư đem tất cả quân của ba huyện cùng hợp sức với Tề vương đánh Thường Sơn, phá tan quân của Thường Sơn vương. Trương Nhĩ bỏ chạy theo hàng Hán. Trần Dư đón Yết, trước đấy bị cải phong làm Đại vương, đưa về làm Triệu vương. Yết bèn lập Trần Dư làm vương đất Đại. Dư ở lại Triệu giúp Yết.

Chỉ có Tang Đồ theo Hạng Vũ là người duy nhất thắng thế. Tang Đồ về nước Yên, múôn đuổi Hàn Quảng đi Liêu Đông, nhưng Quảng không nghe, Tang Đồ giết Quảng ở Vô Chung và lấy luôn đất của Quảng để làm vương.

Hàn vương là Thành không có quân công, Hạng Vương không cho về nước, đưa về Bành Thành và giáng chức làm hầu, sau đó Hạng Vương lại sai người giết đi